++
Đức tin không cố định mà liên tục phát triển qua thời gian, đức tin được ảnh hưởng, tác động biện chứng với sự phát triển nhận thức, cảm xúc, và các yếu tối xã hội tác động
Đức tin phát triển theo xu hướng đi lên, nhưng không theo đường thằng, mà theo cấu trúc phức tạp hơn theo mô hình vòng xoắn ốc, phủ định và kế thưà, transcend nhưng include..
Các giai đoạn phát triển của đức tin,nằm trong trào lưu của tâm lý học phát triển nơi nhìn nhân con người và các khía cạnh của con người, không gì cố định liên tục phát triển tiến lên, ảnh hưởng bởi nghiên cứu mô hình nhận thức phát triển của piget,
Faith là ****gì?
- là một khái cảnh tâm thức của con người sinh động và liên tục phát triển tiến lên
- đức tin là phương tiên của sự hiểu biết, và tương tác với thế giới bao gồm: hệ thống niềm tin, giá trị, và những trải nghiệm tối thượng của ý nghĩa và mục đích
- Đức tín không giới hạn trong bối cảnh tôn giáo mà biểu hiện trong nhiều hình dạng của khác nhau của phi tôn giáo, trong thế giới của trần tục
Sự khác biết giữa đức tin, tôn giáo và niềm tin
- Đức tin: Đức tin, theo James W. Fowler, là một khái niệm rộng lớn và phong phú hơn so với tôn giáo hoặc niềm tin. Đức tin bao gồm một sự hướng dẫn động đến ý nghĩa tối thượng, mục đích và sự vượt qua. Nó bao gồm những niềm tin, giá trị và cam kết sâu sắc của một cá nhân, cũng như những trải nghiệm về ý nghĩa tồn tại và mối liên kết với một thứ gì đó lớn hơn bản thân. Đức tin không chỉ giới hạn trong bối cảnh tôn giáo mà còn có thể hiện trong các hình thức thế tục hoặc không tôn giáo.
- Tôn giáo: Tôn giáo đề cập đến các hệ thống tổ chức của niềm tin, các thực hành, nghi lễ và biểu tượng được chia sẻ bởi một cộng đồng hoặc một nhóm người. Nó cung cấp một khung cảnh cho việc diễn đạt và nuôi dưỡng đức tin, thường thông qua các tổ chức như nhà thờ, nhà thờ Hồi giáo, đền đài hoặc đình chùa. Mặc dù đức tin có thể tồn tại ngoài các cấu trúc tôn giáo, tôn giáo thường phục vụ như một ngữ cảnh xã hội và văn hóa cho việc diễn đạt và phát triển đức tin.
- Niềm tin: Niềm tin đề cập đến sự chấp nhận hoặc sự tin rằng một cái gì đó là đúng hoặc tồn tại. Thường thì nó liên quan đến việc chấp nhận nhận thức tư duy đối với các lời dạy, giáo lý hoặc những quan điểm cụ thể, có thể là tôn giáo hoặc không tôn giáo. Niềm tin có thể được giữ cá nhân hoặc tập thể trong một truyền thống hoặc cộng đồng tôn giáo. Mặc dù niềm tin là một phần quan trọng của đức tin và tôn giáo, nhưng nó không thể hiện đầy đủ sự phức tạp và sâu sắc của đức tin như một trải nghiệm sống.
++
Giai đoạn Intuitive-Projective Faith:
- niềm tin tôn giáo cơ bản trên các câu chuyện hình ảnh và những ấn tương được thể hiện với trẻ con
- sử dụng trí tưởng tượng mạnh mẽ để khái quát hoá các khái niệm tôn giáo, các truyền thuyệt, hoà quyền thực tại với sự ảo diệu.
- tư duy magical thinking: tin vào năng lực siêu nhiên, sức mạnh của nghi lẽ có thể kiểm soát dược môi tường,
- giai đọạn này, trẻ em chấp nhận toàn bộ những lời dạy của cha mẹ, thầy cô mà không có phản biện hay đặc câu hỏi nghi vấn
- do trẻ em trong giai đoạn này có giới hạn về khả năng nhận hức, nhận thức bằng hình ảnh, tưởng tường chứ chưa tư duy trừu tượng.Họ giải thích những câu chuyện và biểu tượng tôn giáo bằng những thuật ngữ cụ thể, theo nghĩa đen mà không nắm bắt được những ý nghĩa hay sự phức tạp sâu sắc hơn.